Thương hiệu lớn từ một ý tưởng nhỏ

Thứ Năm, 22 tháng 11, 2012

Thương hiệu lớn từ một ý tưởng nhỏ

KEMMONS WILSON
KEMMONS WILSON

       Có những người mang đến cho bạn những điều tốt đẹp nhất theo cách mà tự bản thân bạn có lẽ chưa bao giờ nhận biết một cách đầy đủ. Mẹ tôi, Ruby Lloyd Wilson, là một trong những người như thế.
        Hầu như ai cũng gọi mẹ tôi bằng cái tên thân mật là Doll. Khi tôi được chín tháng tuổi, cha tôi qua đời, để lại mẹ tôi đang tuổi đôi mươi với đứa con còn chưa biết nói. Tôi lớn lên trong cảnh túng thiếu triền miên, lắm khi chúng tôi phải sống qua ngày với vài cân đậu sấy khô trong cả tuần lễ liền. Tuy nhiên, lương thực dẫu có thiếu thốn nhưng tình yêu và sự hy sinh của mẹ đối với tôi thì bao la vô bờ bến. Hàng đêm, mẹ ôm tôi vào lòng, thì thầm dạy bảo bằng những lời đã thay đổi cuộc đời tôi sau này: “Kemmons này, lớn lên chắc chắn con sẽ làm nên những điều vĩ đại. Con là người có thể đạt được mọi thứ con muốn nếu con toàn tâm toàn ý và đủ kiên trì để đạt được điều đó!”.
        Năm mười bốn tuổi, tôi bị tai nạn giao thông và bác sĩ bảo tôi sẽ không bao giờ có thể đi lại được nữa. Mẹ tôi lúc ấy phải nghỉ làm để vào bệnh viện chăm sóc tôi. Ngày nào cũng vậy, bằng giọng nói dịu dàng thấm đượm tình yêu thương, mẹ bảo tôi rằng dù các bác sĩ có nói gì đi nữa, chắc chắn tôi sẽ đi lại được, miễn là tôi thực sự có ý chí. Mẹ đã truyền cho tôi niềm tin tuyệt đối vào khả năng bình phục của mình. Và một năm sau, tôi lại đến trường, trên chính đôi chân của mình.
        Vào thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế (1929 - 1933), như hàng triệu người khác, mẹ tôi mất việc làm. Năm ấy, tôi mười  bảy tuổi, và đi ngược lại ước vọng của mẹ tôi, tôi bỏ học đi làm để kiếm sống cho cả hai mẹ con. Chính vào giây phút đó, tôi nhận ra sứ mạng của đời mình. Tôi phải thành đạt vì mẹ tôi. Tôi tự hứa với lòng mình sẽ không bao giờ rơi vào cảnh nghèo một lần nữa.
        Năm tháng trôi qua, tôi gặt hái được một số thành công trong kinh doanh. Nhưng bước ngoặt thực sự xảy ra vào năm 1951 khi tôi cùng vợ và năm con đang đi nghỉ mát. Lúc đó, tôi rất thất vọng với cái khách sạn hạng hai dành cho những gia đình du lịch như chúng tôi và rất giận dữ khi biết rằng chúng tôi phải trả thêm 2 đô la cho mỗi đứa trẻ. Cái giá đó quá đắt đối với một gia đình có mức thu nhập trung bình ở Mỹ. Thế là tôi quyết định kinh doanh khách sạn, nhưng không theo cách của họ. Tôi bảo vợ rằng tôi sẽ mở nhà trọ gia đình với một thương hiệu mà mọi người có thể nghĩ ngay rằng chúng tôi không bao giờ thu phí đối với trẻ con. Tôi ước tính mở khoảng 400 nhà trọ như vậy trên toàn quốc, cứ mỗi quãng đường 150 dặm sẽ có một nhà trọ. Sau đó, vô số người tiên đoán rằng tôi sẽ thất bại vì thực tế là vào thời buổi ấy, ý tưởng này chưa có ai nghĩ tới.
          Không có gì đáng ngạc nhiên, mẹ tôi lại là người ủng hộ tôi mạnh mẽ nhất. Mẹ bắt đầu ngồi vào bàn, tự tay vẽ các bản thiết kế phòng ốc cho một trăm căn nhà trọ đầu tiên. Cũng như mọi chuyện kinh doanh khác, chúng tôi phải đương đầu với vô vàn thách thức. Nhiều năm liền, khoản tiền thưởng cuối năm cho nhân viên được thay thế bằng giấy nhận nợ. Nhưng những lời dạy dỗ của mẹ tôi lúc nào cũng in đậm trong trí óc tôi. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ thất bại. Và quả đúng như vậy, mười lăm năm sau, chúng tôi đã nắm trong tay một hệ thống khách sạn rộng lớn nhất thế giới và là một trong những thương hiệu thành công nhất trong ngành. Đó là chuỗi khách sạn Holiday Inn. Có thể bạn không được sinh ra trong những điều kiện tốt nhất, nhưng nếu bạn nhận ra một sứ mạng đáng để bạn phấn đấu và nếu bạn tin tưởng ở chính mình, không gì có thể ngăn cản bạn đi tới thành công.
“Có thể bạn không được sinh ra trong những điều kiện tốt nhất, nhưng nếu bạn nhận ra một sứ mạng đáng để bạn phấn đấu và nếu bạn tin tưởng ở chính mình, không gì có thể ngăn cản bạn đi tới thành công.”
KEMMONS WILSON

Chinh phục đường đua thế giới bằng đôi chân từng bị tê liệt

Thứ Ba, 20 tháng 11, 2012

Chinh phục đường đua thế giới bằng đôi chân từng bị tê liệt

Đó là câu chuyện chinh phục ước mơ của một cô gái mang tên Wilma Rudolph:
hình ảnh của Wilma Rudolph
“Trước tiên và quan trọng nhất là phải tự tin và hãy là chính mình. Sẽ không có vinh quang nào đến  với bạn nếu không có sự tranh đấu gian khổ của bản thân.” Wilma Rudolph là một cô gái có thể gây chú ý ngay cái nhìn đầu tiên của bạn.
       Tuy chỉ cao 1m56 và nặng chưa đầy 60 ki-lô-gam nhưng cô nhanh như một tia chớp.  Những người xem Wilma thi đấu vào những năm cuối thập niên 1950 đến đầu thập niên 1960 đều được cảnh báo rằng: Đừng chớp mắt, kẻo bạn không theo kịp tốc độ cô ấy! Tại Olympics Rome 1960, Rudolph trở thành “người phụ nữ nhanh nhất thế giới” và là nữ vận động viên người Mỹ đầu tiên đoạt ba huy chương vàng trong một kỳ thế vận hội. Cô chiến thắng ở cả ba cự ly 100m, 200m và tiếp sức 4 x 100m. Ở cự ly 100m, cô lập kỷ lục thế giới với 11,3 giây trong đợt chạy bán kết và sau đó chiến thắng trong đợt chạy chung kết ở 3m cuối cùng với kỷ lục thế giới mới 11 giây. Tuy nhiên, do tốc độ gió trên sân lúc đó là 2,75m/giây, vượt mức cho phép, nên kỷ lục đó không được công nhận. Ở cự ly 200m, cô phá kỷ lục Olympic ngay đợt chạy đầu tiên với thành tích 23,2 giây và chiến thắng ở đợt chạy chung kết với thành tích 24 giây. Ở cuộc chạy tiếp sức 4 x 100, dù xuất phát chậm nhưng Rudolph cũng đủ về trước đội tuyển Đức vừa đúng một bước chân và các cô gái đến từ bang Tennessee, Mỹ đã giành huy chương vàng với thành tích 44,5 giây sau khi phá kỷ lục thế giới ở đợt chạy bán kết ngay trước đó với thành tích 44,4 giây. Các cuộc trình diễn của Rudolph tại các kỳ Olympic (cô từng đoạt huy chương đồng năm 16 tuổi trong cuộc chạy tiếp sức tại Thế vận hội Melbourne năm 1956) thật là ngoạn mục. Nhưng câu chuyện về việc làm thế nào cô đoạt được ba huy chương vàng tại một kỳ Olympic mới thật sự là một huyền thoại.

           Bắt đầu của một ước mơ

           Vào ngày 23/06/1940, tại thành phố St. Bethlehem, bang Tennessee, một đứa trẻ sinh non chào đời với cân nặng 1,1 kg. Phần lớn thời thơ ấu của cô bé gắn chặt với chiếc giường nhỏ. Cô bị chứng viêm phổi nặng ở cả hai lá phổi, bị sởi và sau đó mắc bệnh bại liệt do nhiễm khuẩn. Sau khi chân trái bị tê liệt, cô được nẹp chân bằng kim loại vào năm sáu tuổi. “Tôi dành phần lớn thời gian suy nghĩ làm thế nào để thoát khỏi mớ sắt thép đó”, cô kể. "Khi bạn sống trong một gia đình lớn và tuyệt vời, bạn sẽ luôn có cách đạt được mục tiêu của mình.” Rudolph là con thứ 20 trong một gia đình nghèo có tất cả 22 mặt con (cha cô có hai đời vợ). Mặc dù không phải lúc nào toàn thể anh chị em cô cũng có mặt tại nhà cùng một lúc, nhưng luôn có “những cặp mắt” theo dõi không cho cô tự ý tháo “xiềng xích” ra. Các anh chị cô thay phiên nhau xoa bóp chân cho cô mỗi ngày. Mỗi tuần một lần, bà Blanche mẹ cô, một công nhân nhà máy, chở cô đến bệnh viện Nashville cách nhà 150 cây số để tập vật lý trị liệu. Nhiều năm điều trị cùng với ý chí mạnh mẽ muốn trở thành “một đứa trẻ bình thường” đã có kết quả. Bất kể những cơn ho thắt ngực, bệnh sởi và thủy đậu, vào năm chín tuổi Rudolph được tháo kiềng chân và trở thành một vận động viên bóng rổ có triển vọng. Ở giải bóng rổ cấp trung học, Rudolph chơi trong đội tuyển nữ học sinh Mỹ gốc Phi, cô được C. C. Gray, huấn luyện viên của cô đặt biệt danh là "Skeeter" (tạm dịch: pháo thủ). Rồi Rudolph trở thành cầu thủ bóng rổ nhà nghề đẳng cấp liên bang, lập kỷ lục ghi 49 điểm trong một trận đấu. Sau đó, Ed Temple xuất hiện.
          Temple là huấn luyện viên trưởng môn điền kinh của bang Tennessee. Lúc đó ông đề nghị Gray giúp lập một đội điền kinh nữ và tìm hộ ông một vận động viên chạy nước rút tốt. Và Wilma đã được chọn. “Không hiểu sao tôi lại chạy nhanh như vậy, tôi vào sân, và chạy, thế thôi”. Cô có một khả năng bẩm sinh mà chính cô cũng không thể giải thích được. Cô thích chạy và quyết định tham gia các buổi tập của huấn luyện viên Temple, một giáo sư xã hội học tự nguyện làm huấn luyện viên không lương. Hàng ngày, ông đưa đón các cô học trò nhỏ đến một sân tập gồ ghề, bụi bặm, không vạch vôi bằng chính chiếc xe của mình. Temple là một huấn luyện viên rất nghiêm khắc. Ông thường phạt các cô chạy một vòng sân cho mỗi phút đi trễ. Rudolph đã từng chạy 30 vòng như thế trong một lần ngủ nướng đến trễ 30 phút. Cô còn nhớ như in, ngày hôm sau cô đến sớm 30 phút ngồi chờ bên đường chạy. Đoàn kết và tinh thần đồng đội là tôn chỉ của Temple. Ông từng lưu ý các phóng viên vây quanh Rudolph khi cô nhận chiếc huy chương vàng cự ly tiếp sức rằng bên cạnh cô còn có ba nhà vô địch khác nữa. Rudolph cũng không quên đồng đội của mình. Rằng cô thích chạy tiếp sức vì cô được đứng chung với họ trên đường chạy. Nhưng mặc kệ, giới báo chí và người hâm mộ vẫn cứ vây lấy mỗi mình cô. Báo chí thời đó gọi cô là “Viên ngọc trai đen” hay “Linh dương đen”. Kể từ sau Olympics Rome 1960, trong các cuộc đua tài tại Hy Lạp, Anh, Hà Lan, Đức, giới hâm mộ chỉ hò hét và chờ đợi xem nữ vận động viên Rudolph xinh xắn, dễ thương của họ thi đấu mà thôi.
         Tờ Sports Illustrated tường thuật rằng cảnh sát có vũ trang đã được huy động để giữ trật tự trong lần cô thi đấu tại Cologne. Ở Berlin, các fan của cô đã lấy cắp cả giày thi đấu và đấm thùm thụp vào chiếc xe buýt chở cô cho tới khi cô vẫy tay chào lại họ. “Cô ấy đã mang về cho nước Mỹ nhiều hơn những gì cô ấy được nhận từ nước Mỹ”, Temple nói. Vâng, cô không chỉ làm rạng danh nước Mỹ. Bằng phong cách khoan thai, nhỏ nhẹ của mình, cô đã mở đường cho các vận động viên Mỹ gốc Phi khác sau cô, cả nam lẫn nữ, tiến lên và giành chiến thắng. Sau khi cô chiến thắng trở về từ Rome, Thống đốc Tennessee, Buford Ellington, người được mệnh danh là “kẻ phân biệt chủng tộc cực đoan”, dự định tổ chức một cuộc đón tiếp cô thật rầm rộ, nhưng Rudolph đã từ chối tham dự. Cuộc đón rước và bữa tiệc mừng chiến thắng dành cho Rudolph là ngày hội hòa nhập đầu tiên giữa cộng đồng da trắng và da màu được tổ chức ở Clarksville, quê nhà của cô. Rudolph có sức ảnh hưởng đặc biệt lớn đối với nữ vận động viên Mỹ gốc Phi lừng danh nhất Florence Griffith Joyner, người phụ nữ thứ hai giành được ba huy chương vàng trong một kỳ thế vận hội (1988). “Thật hào hứng khi xem cô ấy chạy”, Rudolph nói. “Mỗi lần nhìn Florence Griffith Joyner chạy, tôi cứ ngỡ như đang thấy lại chính mình.”
           Bob Kersee, huấn luyện viên và là chồng của nữ vận động viên Jackie Joyner-Kersee, nói rằng Rudolph là người có ảnh hưởng lớn nhất đối với các nữ vận động viên Mỹ gốc Phi mà ông từng biết. Cuộc sống bên ngoài đường chạy của Rudolph cũng thành công không kém. Cô có bốn con và sau này làm huấn luyện viên điền kinh tại Đại học Indiana's DePauw trước khi làm đại sứ thiện chí của Mỹ tại Cộng hòa Tây Phi thuộc Pháp (French West Africa). Cô nói rằng thành tích lớn nhất của cô là sáng lập ra tổ chức Wilma Rudolph Foundation, một tổ chức phi lợi nhuận chuyên hỗ trợ cho các hoạt động thể thao nghiệp dư tại các cộng đồng dân cư. “Tôi nói với các em rằng trước tiên và quan trọng nhất là phải tự tin và hãy là chính mình. Tôi luôn nhắc nhở các em rằng không có vinh quang nào đến nếu không có sự tranh đấu gian khổ của bản thân.” Nhiều danh hiệu cao quý vẫn tiếp tục đến với Rudolph. Tên tuổi cô được lưu danh vào Nhà lưu niệm các Vận động viên Da đen Xuất sắc nhất vào năm 1973, và Nhà lưu niệm các Vận động viên điền kinh quốc gia năm 1974. Hiệp hội Bóng rổ nhà nghề Mỹ đã làm một bộ phim về cuộc đời và sự nghiệp của cô, với tựa đề "Wilma". Rudolph qua đời vì căn bệnh ung thư não ở tuổi 54 vào ngày 12/11/1994 tại quê nhà Nashville. Sự thanh thoát và trầm tĩnh đến lạ thường của Rudolph là điểm làm mọi người nhớ về cô nhiều nhất. Bill Mulliken, đồng đội của Rudolph trong cuộc thi chạy tiếp sức tại Olympics Rome 1960 nói: “Chị ấy rất đẹp và dễ thương, và là người chạy nhanh nhất trong bọn chúng tôi!”. 
WILMA RUDOLPH

Những lá thư hy vọng

Thứ Hai, 19 tháng 11, 2012

Những lá thư hy vọng

..............
    Tuần nào Linda Bremner cũng đều đặn gửi đi rất nhiều thư cho những đứa trẻ mà cô chưa từng biết mặt. Không giống như những bậc làm cha làm mẹ thường không cho phép con mình nhận thư của người lạ, phần lớn cha mẹ bọn trẻ và kể cả chúng luôn hồi âm cho cô. Họ viết thư cảm ơn Linda vì cô đã mang đến cho con cái họ niềm hy vọng và cơ hội kéo dài cuộc sống. Những lá thư của cô thực sự làm bọn trẻ cảm thấy phấn khích mỗi khi thoáng nhìn thấy bóng dáng của người phát thư.

      Nơi câu chuyện bắt đầu

       Câu chuyện bắt đầu vào tháng 11 năm 1980. Khi đó, cậu con trai Andy 8 tuổi của Linda được các bác sĩ phát hiện bị ung thư máu. Sau đợt hóa trị đầu tiên ở bệnh viện, Andy trở về nhà và nhận được hàng tá bưu thiếp cùng những lá thư chúc mừng, động viên của bạn bè và người thân. Linda bồi hồi nhớ lại: “Dù Andy có buồn đến thế nào nhưng cứ mỗi lần nhìn thấy bóng dáng người đưa thư là nó lại phấn chấn hẳn lên”.
       Rồi những lá thư và tấm thiệp ấy ngày càng thưa dần và tinh thần cậu bé cũng sa sút theo đó. Thương con, Linda bèn tự mình viết một lá thư thật lạc quan và gửi cho Andy. Bên dưới lá thư, cô ký tên là “Một người bạn bí mật”. Nhận được thư, Andy lại vui vẻ và hoạt bát như trước. Kể từ đó, không ngày nào Linda không gởi một lá thư cho cậu con trai bé bỏng của mình.
       Khoảng một tháng sau đó, Linda để ý thấy Andy vẽ một bức tranh hai chú kỳ lân. Cậu bé bảo để tặng cho “Người bạn bí mật” của mình. Tối đó, sau khi Andy đã ngủ say, Linda cầm bức tranh lên xem và phát hiện dòng chữ ở cuối bức tranh: “Mẹ ơi, con yêu mẹ lắm!”.
       Vậy là Andy đã biết ai là người đã gửi những lá thư nọ! Tuy nhiên, chuyện này cũng không sao – điều quan trọng là những lá thư đó đã giúp cậu cảm thấy hạnh phúc và vui hơn rất nhiều. Bốn năm sau đó, Andy từ giã cõi đời vào ngày 31 tháng 8 năm 1984.


        Linda tâm sự: “Mặc dù tôi vẫn còn hai đứa con khác, nhưng Andy đã để lại cho tôi niềm thương tiếc và nỗi đau buồn vô hạn. Tôi như vỡ vụn trước cái chết của con mình”. Trong một lần sắp xếp lại đồ đạc của Andy, Linda nhìn thấy một cuốn sổ tay nhỏ bên trong một chiếc hộp đựng giày. Cậu bé đã ghi lại địa chỉ của tất cả những người bạn mà cậu đã làm quen không lâu trước đó, trong một cuộc cắm trại dành cho các bệnh nhân ung thư trẻ tuổi. Cầm quyển sổ địa chỉ trong tay, Linda nghĩ chắc hẳn Andy sẽ rất vui nếu cô tiếp tục làm “Người bạn bí mật” của những người bạn mới quen của cậu.

Những lá thư hy vọng

    Thế là Linda quyết định gửi đến mỗi người bạn nhỏ ấy một tấm thiệp. Chưa tròn danh sách thì cô nhận được một bức thư cảm ơn của một cậu bé 12 tuổi. Cậu bé viết “Cháu nghĩ chắc chẳng có ai biết cháu vẫn còn sống trên đời này…” Những dòng chữ làm Linda nhận ra rằng quanh cô có rất nhiều người đang nếm trải những đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần. Cô bật khóc, không phải cho mình, cũng không phải cho Andy mà cho cậu bé đang sống trong cô độc và sợ hãi đang cần người vỗ về.
       Vừa trả lời thư cậu bé xong, Linda tiếp tục nhận được một bức thư khác của một đứa trẻ khác có tên trong danh sách của Andy. Thế là Linda đã nhận ra một tiếng gọi. Cô cảm thấy sự quan tâm đó mang đến niềm say mê và ý nghĩa đích thực cho cuộc đời cô. Cô nguyện sẽ viết thư cho bất cứ đứa trẻ nào cần đến những lời động viên, chia sẻ của cô cho đến khi nào chúng không có thể hồi âm cho cô được nữa.
       Những tấm thiệp và những lá thư gửi đi của Linda đều rất ngắn gọn, lời lẽ lạc quan và không hề sao chép theo khuôn mẫu. Các bạn nhỏ và cha mẹ chúng đón nhận sự quan tâm, chia sẻ của cô và họ rất vui khi có một người bạn mới như cô. Ý tưởng thành lập một tổ chức của những người viết thư thiện nguyện cũng bắt đầu từ đây. Bạn bè, thậm chí những người hàng xóm của cô đã hết lòng ủng hộ và giúp đỡ cô thực hiện sứ mệnh cao cả của mình. Họ đặt tên cho tổ chức của họ là Love Letters (Những Lá thư Tình yêu).
        Cùng sát cánh bên nhau, Linda và đội quân tình nguyện của mình đã làm việc không mệt mỏi để giúp cho những người bạn trẻ chống chọi với căn bệnh bằng niềm vui sống. Rồi Love Letters phải đối mặt với một thử thách lớn cần phải vượt qua: đó là ước mong được nhận những lá thư tình yêu như vậy ngày càng nhiều trong khi khả năng tài chính của họ là hạn hẹp. Với sự hỗ trợ của cộng đồng, đặc biệt là các tổ chức như Rotary Club, Hội Doanh nghiệp trẻ, … Love Letters  đã có thể tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao cả của mình nhờ tiền bạc, văn phòng làm việc và cả những con tem do mọi người quyên góp. Love Letters cũng viết thư kêu gọi lòng hảo tâm của 40 công ty lớn nhưng kết quả không như họ mong đợi. Dù vậy, Love Letters chưa bao giờ bỏ lỡ một bức thư nào của những người bạn nhỏ. Đối với Linda và 35 tình nguyện viên khác nữa, những người bạn nhỏ ấy có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Mọi người luôn động viên họ, khi thì mua ủng hộ họ vài chiếc bánh nướng, lúc thì chiếc áo thun, hoặc chỉ đơn giản là dốc hết những đồng tiền nhỏ bé còn lại trong túi mình ra quyên góp cho Love Letters.

Love Letters

Nơi love letters làm việc

Nơi love letters làm việc

         Đến nay, sau 10 năm kể từ ngày Linda gửi bức thư đầu tiên đến cậu bé mà cô không hề quen biết, mỗi năm Love Letters đã gửi đi tất cả 60.000 lá thư tình yêu như thế. Tuy có lúc gặp khó khăn về tài chính để duy trì hoạt động, nhưng tấm lòng và quyết tâm cao độ ở Love Letters thì lúc nào cũng có. Có đến ba mươi lăm người tình nguyện dành ra khoảng 400 giờ mỗi tuần để trao đổi thư từ với khoảng 1.100 trẻ em ở khắp nơi. Hàng tháng, họ chuyển từ 90 đến 110 món quà sinh nhật cho những người bạn nhỏ của họ. Riêng đối với những cô bé, cậu bé nào đang phải vượt qua giai đoạn đau đớn nhất của căn bệnh, Love Letters đều cố gắng gửi thư động viên mỗi ngày. Mỗi năm, Love Letters phải chia tay với khoảng 200 người bạn nhỏ tuổi, hoặc do các em đã hồi phục tốt, hoặc không qua được căn bệnh hiểm nghèo. Điều đáng buồn là, danh sách thư tín của Love Letters cứ luôn dài ra thêm.
          Riêng Linda, hàng tuần, cô đều dành 70 đến 80 giờ đồng hồ để điều hành và bảo đảm cho sự hoạt động liên tục của Love Letters. Mỗi khi cô gần như kiệt sức vì mệt thì một cuộc điện thoại gọi đến để giãi bày hay để bày tỏ lòng biết ơn chân thành lại bồi đắp thêm sức lực và quyết tâm cho cô. “Nó làm tôi khỏe lại, bởi chính tôi là người đầu tiên hiểu được sức mạnh của một bức thư động viên, chia sẻ trong việc chữa lành những vết thương trong tâm hồn.”
LINDA BREMNER
 “Tôi sẽ tiếp tục làm công việc này cho đến hơi thở cuối cùng của mình. Tôi đã từng nghe một đứa trẻ khóc trong tuyệt vọng, đã từng thấy một đứa trẻ mỉm cười trong hy vọng. Tôi thích ngắm nhìn những nụ cười như thế và việc mang lại một niềm vui, dù nhỏ bé cho những người bạn nhỏ mới thực sự là điều quan trọng đối với tôi.”
..............

Những căn nhà hạnh phúc

Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2012

Những căn nhà hạnh phúc

    Nếu bạn có một giấc mơ là tạo dựng một gia tài khổng lồ từ hai bàn tay trắng thì Millard Fuller chính là một hình mẫu điển hình như thế, nhưng cuộc đời của anh không chỉ là như vậy !

Sự nghiệp Millard Fuller:

       Trước khi bước vào tuổi ba mươi, Millard đã có trong tay một triệu đô la cùng tham vọng kiếm được mười triệu đô la nữa, bởi anh đã sở hữu đầy đủ mọi kỹ năng và nguồn lực để thực hiện tham vọng đó. Anh có một biệt thự sang trọng, một nhà nghỉ bên hồ, hai ngàn héc-ta đất, vài chiếc thuyền cao tốc và nhiều xe hơi đắt tiền. Anh có vợ và hai con cùng những cơn đau thắt ngực và một thời gian biểu dày đặc với công việc. Đế chế kinh doanh của Millard ngày càng lớn mạnh nhưng cuộc sống hôn nhân của anh thì ngày càng bế tắc. Âu đó cũng là chuyện thường thấy ở những người luôn bị cuốn hút vào giàu sang và quyền lực. Nhưng Millard, một trong một triệu triệu phú của thế giới đã dám làm một cuộc thay đổi.

Giấc mơ về những căn nhà hạnh phúc

          Bắt đầu từ sự thay đổi

     Mọi việc bắt đầu vào ngày Millard bị một cơn đau tim bất ngờ ập đến khi đang ở văn phòng. Đó không phải là cơn đột quỵ do tắc nghẽn mạch máu hay xơ cứng động mạch vành mà là do sự đau buồn và lòng ân hận bất ngờ tràn ngập tâm can và làm tim anh như ngừng đập. Đó là khi Linda, vợ anh, gọi điện nói rằng cô không còn ý nghĩ rằng mình đang có một người chồng, rằng cô không biết mình có còn yêu anh nữa không, và cô sẽ đi New York gặp một mục sư nào đó để giãi bày hoàn cảnh của mình. Millard choáng váng. Anh đã dành cho cô tất cả mọi thứ trên đời mà tiền bạc có thể mua được. Sao cô ấy có thể không yêu anh cơ chứ?
       “Tuần lễ sau đó là chuỗi ngày cô độc nhất và đau khổ nhất cuộc đời tôi”, Millard nhớ lại. Anh bắt đầu nhận ra rằng sự thành công trong kinh doanh của anh buộc anh phải trả giá bằng tất cả những gì anh thực sự quan tâm trong đời. Điều này càng được khẳng định khi anh xem một bộ phim với lời giới thiệu “Một cuộc đời được sắp đặt trước chỉ là một sự chịu đựng”. Một cuộc sống định sẵn? Vâng, đó chính xác là tình cảnh hiện tại của Millard và gia đình anh. Và anh đã không gắn nó vào một mục đích có ý nghĩa nào.
        Millard gọi điện cho Linda và khẩn khoản xin cô cho anh được gặp. Linda miễn cưỡng đồng ý. Thế là Millard đáp máy bay đi ngay đến New York. Những ngày sau đó chỉ toàn nước mắt cùng sự thổn thức của hai con tim đau khổ. Rồi họ cam kết làm lại từ đầu với những gì thực sự có ý nghĩa cho cuộc sống gia đình. “Cả hai chúng tôi dường như cảm nhận được sự hiện diện của Thượng Đế khi chúng tôi bàn chuyện tương lai. Chúng tôi cảm thấy mình như đang được ơn trên soi sáng và dẫn dắt tới một cách sống mới”, Millard nói. Và để bắt đầu, Millard và Linda quyết định trước tiên phải từ bỏ những thứ đã tạo ra bức tường ngăn cách giữa họ và Thượng Đế – tức chuyện kinh doanh và mọi của cải vật chất.

          Để khởi đầu cho một giấc mơ !

          Họ đã bán tất cả - công ty, nhà cửa, xe cộ, thuyền bè và hiến tặng cho nhà thờ, trường học và các quỹ từ thiện. Bạn bè cho rằng Millard phát rồ, còn anh thì lại cảm thấy mình chưa bao giờ sáng suốt hơn thế. Millard cảm thấy thư thái hơn, nhưng tiếp theo phải làm gì đây?
           Câu trả lời đến với Millard khi anh cùng đi với Clarence Jordan, một nhà thần học Thiên Chúa giáo, đến thăm một cộng đồng giáo dân do Clarence tập hợp và đặt tên là Koinonia. Đó là một ngôi làng nhỏ gần thị trấn Americus thuộc bang Georgia, cách Atlanta 140 dặm về hướng nam. Clarence chỉ cho Millard thấy hàng loạt những căn nhà tạm bợ, tồi tàn dọc theo những con đường bẩn thỉu của vùng đồng quê. Đó là nơi trú ngụ của hàng trăm gia đình nghèo khó, thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần – một trong hàng trăm nghìn cảnh tượng đang tồn tại trên khắp đất Mỹ và nhiều quốc gia khác trên thế giới, vì 25% dân số thế giới, tương đương 1,5 tỷ người, hiện đang sống dưới mức nghèo khổ, thậm chí không chốn nương thân.
          Thế là Millard, Clarence và các cộng sự bắt tay dựng nhà cho những người cơ  nhỡ. Buồn thay, khi căn nhà đầu tiên đang trong quá trình xây dựng thì Clarence đột ngột qua đời vì một cơn đau tim. Tuy nhiên, việc xây dựng nhà cho dân nghèo làng Koinonia vẫn được tiến hành liên tục trong bốn năm rưỡi sau đó.
          Xúc động trước ảnh hưởng mạnh mẽ của những căn nhà đơn sơ nhưng tươm tất đối với các gia đình nghèo khó ở Koinonia, Millard muốn kiểm chứng hiệu quả của hoạt động thiện nguyện này bên ngoài ranh giới bang Georgia. Thế là Millard cùng vợ đi Zaire, Trung Phi, phối hợp với Hội thánh Tin Lành địa phương thực hiện nhiều dự án xây nhà cho người nghèo tại quốc gia này trong ba năm liên tục. Cuối cùng, tin rằng tư tưởng chủ đạo trong việc làm của họ có thể phát huy tác dụng khắp mọi nơi trên thế giới, họ trở về Georgia năm 1976 và quyết định thành lập Tổ chức Habitat for Humanity International (tạm dịch: Tổ chức Nhân đạo Quốc tế về Nhà ở).Nếu Millard từng quyết tâm kiếm được 10 triệu đô la thì giờ đây ông chỉ muốn xây nhà cho 10 triệu người đang gặp khó khăn về nhà ở. Cả Millard và Linda đều tâm niệm rằng “ai cũng cần một mái ấm, dù đơn sơ, để gối đầu ngả lưng khi đêm về”. Và họ xem đó là lý tưởng của đời mình. Họ tin rằng xây nhà bán trả góp không lấy lãi cho người nghèo là thể hiện sự thành tâm và lòng bác ái bằng hành động cụ thể – đó mới là chân đạo.
         Tôn chỉ của Tổ chức Nhân đạo Quốc tế về Nhà ở chỉ đơn giản là thế. Thoạt đầu nhiều người cho rằng điều đó là phi thực tế, thậm chí là điên rồ khi biết đó là một tổ chức phi lợi nhuận, chỉ xây nhà bán với giá vốn. Những người khác thì cho rằng đó không phải là tư duy kiểu Mỹ và sẽ không mang lại kết quả gì. Nhưng Habitat đã hoạt động tốt. Nó đã giúp vô số người có thu nhập khiêm tốn, nhà cửa tồi tàn có cơ hội sở hữu một căn nhà mới đàng hoàng hơn và phù hợp với khả năng tài chính của họ. Việc xây những căn nhà mới của Habitat hầu như chỉ nhờ vào các tình nguyện viên, mà đa phần họ không có kinh nghiệm gì về xây dựng. Riêng tiền bạc và vật tư xây dựng thì được nhiều tổ chức xã hội, công ty và nhà thờ quyên tặng. Nhiều người ở mọi tầng lớp xã hội đã góp công góp sức vào công việc nhân đạo này bất cứ khi nào họ có thể. Habitat cũng không hẳn là một tổ chức từ thiện bởi các gia đình được nhận nhà cũng chung tay với Habitat xây dựng căn nhà của chính họ và cả nhà của những người hàng xóm. Khi người mua thanh toán tiền nhà, những đồng tiền đó lại được sử dụng để tiếp tục xây nên những căn nhà mới.
           Tại sao nhiều người, nhiều tổ chức sẵn sàng đóng góp cho Habitat? Đó là vì những kết quả thu được thật rõ ràng. Nhu cầu thì vô tận mà sức lực của con người thường có giới hạn, vì thế khó mà tạo ra được sự khác biệt lớn lao nào nếu không có sự đồng lòng hợp sức. Ở Habitat, những người tình nguyện và những người chủ nhà tương lai cùng làm việc kề vai sát cánh bên nhau. Khi một căn nhà được xây xong, mọi người cùng chia sẻ với chủ nhà niềm sung sướng và tự hào khi ngắm nhìn thành quả chung của họ. Mục tiêu của Habitat là thay thế những khu nhà tồi tàn bằng những căn nhà mới tươm tất hơn, đồng thời giải quyết nhu cầu nhà ở cho người vô gia cư khắp mọi nơi. “Tôi nhận ra rằng sự  táo bạo trong các mục tiêu của chúng tôi đã làm lay động lòng người. Cứ mỗi năm trôi qua, chúng tôi lại kinh ngạc trước những điều kỳ diệu mới được tạo ra từ sự táo bạo ấy”, Millard nói. Thông qua kế hoạch của Millard, Habitat đã xây được hơn 60.000 căn nhà trên khắp thế giới, giúp hơn 300.000 người có nhà ở ổn định, tươm tất và phù hợp với thu nhập khiêm tốn của họ. Đến nay, Habitat đã có hơn 1.400 chi nhánh khắp 50 bang nước Mỹ và trên 250 văn phòng đại diện ở nước ngoài. Họ cũng điều phối khoảng 800 dự án xây dựng ở 51 quốc gia trên thế giới.

               Habitat không chỉ dựng nên những căn nhà, mà họ đã xây dựng nên những gia đình, những cộng đồng và cả niềm hy vọng lớn lao. Millard giải thích rằng: “Có an cư thì mới lạc nghiệp. Chính những căn nhà có thể chống chọi với cuồng phong, mưa lũ, động đất nhẹ đã giúp xã hội giành lại những con người lương thiện khỏi tay bọn buôn bán ma túy và làm thay đổi triệt để cái nghèo”. Habitat cũng giúp mọi cá nhân thuộc mọi ngành nghề, giai cấp, địa vị xã hội, tôn giáo,… xích lại gần nhau. Hầu như người dân Mỹ nào cũng đã từng thấy hình ảnh Tổng thống Jimmy Carter và Đệ nhất Phu nhân Rosalynn Carter trong trang phục áo liền quần của công nhân, đóng đinh, cưa gỗ dưới cái nắng gay gắt giữa trời. Millard nhận được sự ủng hộ của họ đơn giản bằng việc thỉnh ý họ. “Tôi đã đệ trình Tổng thống 15 thỉnh nguyện với hy vọng chỉ một hay hai trong số đó được đồng ý đã là quá tốt”, Millard kể lại. “Nhưng, trong sự vui mừng khôn tả của chúng tôi, Tổng thống đồng ý tất cả!” Gia đình Tổng thống Carter chỉ là một trong số những tấm gương nổi bật nhất về những người tham gia vào các hoạt động thiện nguyện của Habitat bằng sự ủng hộ tích cực cả nhân tài và vật lực trong quá trình xây đắp những mái ấm, mang đến hạnh phúc cho những người nghèo khó, cơ nhỡ. Vào cuối thế kỷ 20, Habitat đã trở thành nhà xây dựng lớn nhất thế giới, xét trên tiêu chí số lượng công trình xây dựng hoàn thành. Từng viên gạch, từng bay hồ không chỉ tạo ra những căn nhà mang dấu ấn Habitat, mà còn xây nên những cuộc đời mới.  Tất cả bắt nguồn từ sự từ bỏ của cải vật chất của một đôi vợ chồng trẻ để đổi lấy những giá trị tốt đẹp hơn. Giờ đây, Millard và Linda tin rằng họ là hai trong số những người giàu có nhất trên đời.

“Chính ước nguyện xóa đi hình ảnh những căn nhà tồi tàn đã thôi thúc chúng tôi vượt qua muôn vàn khó khăn, trở ngại trên đường đời. Và, với sự phù trợ của Thượng Đế, chúng tôi chắc chắn sẽ đạt được mục tiêu nhà ở cho mười triệu người, lần lượt mỗi lần từng căn một.”

Millard Fuller

Hai vận động viên “ngoại hạng”

Thứ Ba, 13 tháng 11, 2012

Hai vận động viên “ngoại hạng”

- "Mọi người đều cho rằng tôi không thể làm được gì, nhưng cha mẹ tôi không nghĩ thế, họ tin ở tôi, và chúng tôi đã chứng minh cho mọi người thấy rằng họ đã nhầm khi nghĩ như thế.”
         Đó là một câu chuyện khó tin, nhưng có thật: một người liệt toàn thân ngồi xe lăn nhưng có thể thi đấu đủ các môn, từ marathon đến ba môn phối hợp, và thậm chí cả những cuộc tranh tài thể thao khắc nghiệt vốn chỉ dành cho những vận động viên có sức khỏe siêu hạng.Anh luôn về đích và bỏ lại phía sau hơn một nửa số vận động viên khác trong cuộc đua. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ làm cho đám đông khán giả thán phục đến lặng người.
        Rick Hoyt đã từng cán đích 631 lần như thế trong suốt 20 năm qua, và hầu như anh luôn nằm trong nhóm năm mươi phần trăm những người về đầu, chưa kể đôi lần anh đoạt chức vô địch. Tuy nhiên, anh không bao giờ về đích một mình vì lúc nào cũng vậy, sát bên anh là người đồng đội chí cốt, Dick Hoyt, cha anh. Mọi người nói rằng những gì Dick làm được thật phi thường. Người ta thường nhìn thấy hình ảnh một người đàn ông trung niên vừa chạy vừa đẩy một người khác ngồi trong xe lăn, hoặc gò lưng đạp xe kéo theo một chiếc xe lăn lên dốc xuống đồi, hay vừa bơi vừa kéo một người khuyết tật cùng chinh phục 3 km đường đua xanh và còn nhiều chuyện hơn thế nữa. Gia đình Hoyt đã quen thuộc với những hình ảnh đó. Và, họ có thể biến những cái không thể thành có thể.
        Khi Rick chào đời năm 1962, các bác sĩ nói với Dick và Judy, cha mẹ anh, rằng đứa bé sẽ chẳng mang lại điều gì tốt đẹp cho họ ngoài sự đau buồn và khuyên họ nên gởi Rick vào trại trẻ mồ côi. Bị liệt toàn thân do bại não, Rick chỉ có thể sống đời sống thực vật. Có lẽ con trai họ không bao giờ có thể hòa nhập được với cộng đồng. Gia đình Hoyt bỏ ngoài tai lời khuyên của bác sĩ và đem con trai họ về North Reading, bang Massachusetts. Dick và Judy quyết định nuôi dưỡng con trai họ như mọi đứa trẻ bình thường khác. Vào thời đó, các chuyên gia không biết nhiều về chứng bại não và do đó họ cũng không chắc chắn lắm về tình trạng của Rick. Việc phải sống cùng với trẻ tàn tật là điều hầu như nằm ngoài mong đợi của hầu hết các bậc phụ huynh. Nhưng gia đình Hoyt là một ngoại lệ. Họ muốn chứng tỏ “tình trạng khuyết tật” thuần túy chỉ là một thử thách cần phải chinh phục, chứ không phải là những rào cản không thể vượt qua. Cách giao tiếp duy nhất với mọi người mà Rick có thể thực hiện là gật đầu để biểu lộ sự đồng tình hoặc lắc đầu chỉ sự phản đối. Các chuyên gia y tế bảo rằng anh không thể nói được. Gia đình Hoyt lại có niềm tin ngược lại và họ đã tặng 5.000 đô la cho trường Đại học Tufts để nghiên cứu thiết bị hỗ trợ giao tiếp dành cho người không có khả năng nói bình thường. Khi Rick 12 tuổi, thiết bị này đã sẵn sàng đưa vào thử nghiệm. Các kỹ sư của Đại học Tufts và cả gia đình Hoyt hồi hộp vây quanh Rick chờ đợi những câu nói đầu tiên của cậu. Rick dùng đầu để điều khiển công tắc điện và cuối cùng cũng lắp ghép được thành câu: “Giống con gấu quá!”.
      “Chúng tôi cùng bật cười trong hạnh phúc”, Dick nói, “bởi vì điều đó đã xác nhận những gì chúng tôi hằng tin tưởng - Rick có tư duy lành mạnh và tích cực - và cả óc khôi hài nữa.”
         Vì Rick sớm bộc lộ sự yêu thích thể thao, cả gia đình thường đưa cậu đi câu cá, đua thuyền, và thậm chí là leo núi bằng cách mang cậu sau lưng. Mọi người trong gia đình được dịp nhận biết khuynh hướng thích mạo hiểm, thử thách ở cậu, đồng thời thấy rõ một con người bình thường với một đầu óc bình thường, có những nhu cầu như mọi người khác - cả những niềm hy vọng và ao ước được mọi người tôn trọng - trong thân thể hầu như không cử động được của Rick. Thiết bị giao tiếp hỗ tương đóng vai trò then chốt giúp Rick bày tỏ ý tưởng cá nhân và những quan tâm của cậu cùng những thắc mắc thể hiện một tư chất thông minh. Tuy nhiên các trường học không dám nhận Rick bởi cậu không thể tự bước đi, không thể tự ăn uống hoặc mở miệng nói chuyện. Năm 14 tuổi, do khả năng ‘nói’ thông qua thiết bị hỗ trợ ngày càng phát triển và đạo luật mới nhằm đảm bảo cho mọi trẻ em đều được đến trường, cuối cùng Rick cũng được vào trung học, nơi có những trang thiết bị hỗ trợ đặc biệt có thể giúp cậu tự xoay xở trong mọi sinh hoạt. Chính trong quãng thời gian này, Rick cảm thấy yêu thích môn điền kinh.
        Vào năm 1977, khi Rick được 15 tuổi, tình cờ cậu nghe nói về cuộc thi marathon năm dặm sắp được tổ chức để quyên góp cho một sinh viên bị tai nạn xe hơi. Rick thổ lộ với cha ý muốn tham gia để giúp đỡ cậu sinh viên nọ. Thoạt tiên cha cậu rất bất ngờ với đề nghị của con mình. “Tôi nghĩ, mình đã bốn mươi tuổi và thỉnh thoảng mới chạy bộ chút ít nên không thể nói tôi là một vận động viên điền kinh nghiệp dư được. Điều làm tôi lo nhất là làm sao tôi có thể vừa chạy vừa đẩy Rick trên chiếc xe lăn của nó. Nhưng tôi biết đây là cơ hội có ý nghĩa vô cùng lớn đối với con trai tôi nên tôi bảo Rick: “Được rồi, chúng ta sẽ đăng ký!”. Sau khi cuộc đua kết thúc, Dick ê ẩm cả người và hầu như không thể nhấc nổi tay chân trong suốt hai tuần liền sau đó. Nhưng vào một đêm nọ, trong khi Dick đang xoa bóp những chỗ bị đau bằng thuốc Epsom thì Rick về đến nhà, cậu đưa ra một thông điệp làm thay đổi cả cuộc đời Dick: “Cha à, khi chạy cùng cha, con cảm thấy như mình không phải là người tàn tật gì cả”. Sau cùng thì Rick cũng đã tìm thấy điều có thể cho cậu cảm giác tự do bay bổng không gì sánh bằng. Lúc đó, Dick biết mình phải làm gì. Nếu Rick muốn trở thành vận động viên điền kinh và được thi đấu, Dick sẽ chắp đôi tay và đôi chân của mình để giúp con trai đạt được ước mơ. Nhưng để làm được như thế, Dick cần phải thiết kế lại một chiếc xe đẩy nhẹ hơn nhiều để giảm bớt sức nặng cho ông trên đường chạy.
                   .............................................................
         Hai năm sau đó, chiếc xe mới được hoàn tất vào tháng chín năm 1979, lúc Rick và cha mình đăng ký tham gia một giải đấu marathon chính thức lần đầu tiên, một cuộc đua năm dặm ở Springfield, Massachusetts. Họ về đích thứ 150 trong tổng số 300 vận động viên. Sau đó, họ thi đấu ở nhiều thành phố khác nhau vào mỗi cuối tuần. Một trong những cuộc đua đó là giải Marathon Boston, một giải đấu nổi tiếng thế giới với đường đua tiêu chuẩn, dài 42,175km. Rick và cha cậu đăng ký ở nhóm vận động viên ngồi xe lăn, nơi có những vận động viên nhiều kinh nghiệm thi đấu trước đó. Đơn đăng ký của Rick bị từ chối bởi Rick không thể đua một mình. Nhưng cả gia đình Hoyt không chịu bỏ cuộc. Họ âm thầm tham dự cuộc đua, họ thay phiên nhau chạy sau xe của Rick để đẩy cậu. Chẳng có nhà tài trợ hay thành viên nào trong ban tổ chức biết đến sự có mặt của họ, nhưng khán giả dọc đường đua trong thành phố thì ai cũng biết, và họ đã nhiệt liệt reo hò cổ vũ gia đình Hoyt cho tới khi họ về đến đích. Trong số 7.400 vận động viên tham gia, gia đình nhà Hoyt nằm trong nhóm chín mươi phần trăm những người về đầu. Đây là một trong những cuộc đua marathon đầu tiên ở Boston mà họ tham gia và về đến đích.
        Trong suốt những năm này, Rick cũng chứng tỏ mình còn hơn cả một vận động viên “đặc biệt”. Cậu lấy bằng tốt nghiệp của Đại học Boston và trở thành người khuyết tật bại não đầu tiên tốt nghiệp đại học. Năm 1984, Dick trở thành một vận động viên điền kinh nổi tiếng và được mời tham dự các cuộc thi ba môn phối hợp (bơi, đạp xe, chạy bộ). Đó vốn là cuộc thi dành cho những người có sức khỏe tốt và dẻo dai nhưng ban tổ chức muốn Dick tham gia, và chỉ mình ông mà thôi, không có Rick. Ông từ chối. Năm kế tiếp, họ lại đưa ra lời mời tương tự, nhưng một lần nữa ông lại từ chối nếu không có con trai của mình cùng tham gia. Dick nói với các nhà tổ chức, “Rick chính là lý do tôi tham gia các cuộc thi này; tôi không muốn thi đấu một mình. Rick là động lực thúc đẩy tôi. Hơn nữa, nếu không có Rick, tôi không biết phải làm gì với hai cánh tay của mình”. Sau cùng, ban tổ chức đồng ý để Rick tham gia nếu Dick có thể trang bị một thiết bị thi đấu an toàn cho cả hai. Dick cũng chẳng thèm bận tâm khi con trai mình không biết bơi, cũng chẳng biết đạp xe kể từ năm lên sáu tuổi. Sau những gì mà con trai ông đạt được, những khó khăn ấy chừng như chẳng đáng kể gì. Dick bắt đầu huấn luyện và thiết kế một thiết bị có thể giúp ông kéo Rick theo dưới nước cũng như trên bộ. Chiếc xe đạp nặng 29 kg, Rick 44 kg, và Dick 84 kg - tổng cộng 157 kg, cả khối lượng này sẽ lên đèo xuống dốc, vượt qua những rào cản thể chất và tinh thần một cách không ngừng nghỉ. Rick và Dick đã hoàn tất cuộc thi ba môn phối hợp lần đó và cả những lần khác mà họ từng tham dự, với thành tích nằm trong số năm mươi phần trăm những người về đầu.
            những cuộc đua nổi tiếng chỉ dành cho những người có sức khỏe tốt. Những cuộc đua mà mọi người chỉ riêng nghĩ làm sao để sống còn đã là một niềm hạnh phúc lớn - bơi một mạch 3,8 km, đạp xe 179 km và chạy 42 km đường trường. Rick đi học cả tuần, còn Dick thì tự luyện tập. Mỗi ngày ông bơi khoảng 3 km, chạy 13 km, và đạp xe từ 50 - 60 km cùng chiếc xe lăn thi đấu trong đó có khối bê tông 45 kg. Dick và con trai mình đã cùng thi đấu và về đích bốn cuộc thi ba môn phối hợp như thế. Họ cũng từng đạp xe từ Los Angeles tới Boston, với quãng đường 6.000 km trong suốt 45 ngày không nghỉ. Sau khi hoàn tất cuộc đua marathon Boston lần thứ 15, cuộc đua mà họ đã bị từ chối vào năm 1981 khi lần đầu tiên đăng ký tham gia, họ đã được tôn vinh như những Anh hùng của nước Mỹ nhân kỷ niệm lần thứ 100 môn marathon.
           Dick vẫn khăng khăng rằng chính con trai mình mới là vận động viên điền kinh, chứ không phải ông. “Tôi không biết phải giải thích thế nào, nhưng mỗi khi đứng đằng sau chiếc xe lăn của con trai, tôi cảm thấy lâng lâng khó tả. Rick là cỗ máy hoạt động của cả hai chúng tôi. Tôi cho Rick mượn thân thể mình, nhưng chính tinh thần của Rick mới là động cơ thúc đẩy chúng tôi tiến về phía trước.” Rick và Dick đã thi đấu cùng nhau suốt 20 năm và có thể nói, thứ hạng trong mỗi cuộc đua không quan trọng đối với họ. Nhưng vào những khoảnh khắc họ bước vào vạch xuất phát, mỗi cuộc đua đã là một chiến thắng vĩ đại đối với họ.
  “Tôi xác quyết rằng tôi chỉ là một con người bình thường với những khả năng dưới mức trung bình.Tôi không có chút nghi ngờ nào rằng bất kỳ người nào cũng có thể làm được những điều tôi đã làm nếu họ không ngừng ươm mầm hy vọng và niềm tin.”
DICK HOYT - RICK HOYT

Thành công sau một chặng đường dài

Thứ Hai, 12 tháng 11, 2012

Thành công sau một chặng đường dài

“Nhà văn không thể biết trước thành công có đến với mình hay không. Họ chỉ biết nỗ lực hết mình và chuẩn bị chào đón thành công bằng việc viết, viết, và viết nhiều hơn nữa.” Lại một lời từ chối nữa trong vô số lời từ chối của các nhà xuất bản.
      Khi thì nó nhảy bổ ra từ thùng thư, lúc thì lại êm ái, lịch sự rót vào tai Noreen Ayres từ ống nghe của chiếc điện thoại, lần khác nó chậm rãi bò vào nhà cô bằng đường máy fax. Chỉ một vài tác giả không gặp những thất vọng loại này, còn thì rất, rất nhiều người buộc phải đầu hàng và buông bút. Nhưng Noreen không nằm trong số họ. Ba mươi lăm năm viết và gởi, cuối cùng cô đã chứng minh được rằng tất cả những lời từ chối cô nhận được chỉ là một bản nháp được viết đi viết lại nhiều lần trước khi thành bản chính với nội dung ngược lại. Noreen mơ trở thành nhà văn từ năm mười bốn tuổi. Một giáo viên nhận ra khả năng của cô và động viên cô học lên đại học. Với Noreen lúc ấy, vào đại học là một ý nghĩ lạ lẫm bởi trong gia đình cô, chưa có ai học hết trung học, nói chi đến đại học. Cha mẹ cô cũng chưa bao giờ quan tâm đến chuyện học hành của con cái. Chính cô giáo của  Noreen đã thắp lên ngọn lửa đó trong cô. Noreen rời gia đình vào năm mười bảy tuổi và tự bươn chải để có tiền học đại học.
         Ở đại học, các giáo sư của cô cũng nhận ra một điều gì đó đặc biệt trong các bài viết của Noreen. Nhưng mọi việc chỉ dừng lại ở đó vì chưa kịp có tác phẩm nào thì cô đã lập gia đình và có con. Đó là những chuỗi ngày dài nhất của đời cô: bảy năm liền trong vai trò làm mẹ và tám năm kế tiếp cô theo học hàm thụ sau đại học nhằm kiếm một tấm bằng thạc sĩ để có thể đi dạy. Trong thời gian đi dạy và làm thư ký, cô dành hết thời gian rảnh rỗi để làm thơ và viết truyện ngắn. Năm tháng qua nhanh trong khi cô chỉ mới đi được những bước đi nhỏ bé vào lĩnh vực viết văn. Rồi cô làm người sửa mo-rat cho các nhà xuất bản. Sáu năm nữa trôi qua, cô vẫn viết, được một vài giải thưởng và nhiều lời khích lệ nhưng thành công dường như không muốn đến với cô, không ai chịu xuất bản sách của cô. Thời giờ mải miết trôi và Noreen biết rằng cô không còn nhiều thời gian. Khá lâu sau cuộc ly hôn với người chồng đầu tiên, ở tuổi ba mươi tám, cô kết hôn với Tom Glagola, một nhà văn nhiều khát vọng. Họ hứa với nhau hai điều: một là sẽ mãi mãi bên nhau, và hai là quyết tâm trở thành những nhà văn nổi tiếng. Cả hai đều đang phải làm việc toàn thời gian để duy trì cuộc sống nên họ chỉ có thể viết khi nào tranh thủ được chút thời gian. Lại sáu năm nữa trôi qua và họ vẫn chưa có tác phẩm nào được xuất bản. Cảm thấy tuyệt vọng, Noreen cùng chồng đi đến một quyết định táo bạo: nghỉ việc để toàn tâm toàn ý sáng tác. Để trang trải chi phí sinh hoạt, họ phải mang cầm cố ngôi nhà của mình. Họ tự nhủ, thậm chí nếu họ vẫn không thành công trước tuổi sáu mươi lăm, họ cũng mãn nguyện vì đã cố gắng hết mình.
            Noreen viết rất đều tay và công bố các truyện ngắn của mình ở bất kỳ nơi nào có thể. Một năm rưỡi qua đi và không một mẩu truyện nào được xuất bản. Cô bắt đầu nản và tự hỏi rằng mình đang cố gắng vì cái gì. Ở những thời điểm quyết định như thế này, con người ta phải chọn lựa: hoặc từ bỏ giấc mơ, hoặc đi tiếp bằng tất cả nghị lực và ý chí. Noreen đã quyết định tiếp tục. Bà tham gia hội nhà văn. Lấy những lời nhận xét và khuyến khích của các thành viên trong hội làm động lực, Noreen chuyển sang viết tiểu thuyết trinh thám. Tác phẩm đầu tiên bà gửi đến ba mươi ba nhà xuất bản và bà nhận được … ba mươi ba lời từ chối cùng những lời khen về phong cách viết, chứ không phải về nội dung tình tiết của truyện. Quyết tâm biến thất bại thành cơ hội, Noreen tham gia các khóa học về nghiên cứu tội phạm, giám định hình sự, đọc các vụ án trên báo chí và phỏng vấn các chuyên gia trong những lĩnh vực đó. Một ngày kia bà gặp một vụ án mạng đáng chú ý. Đó là vụ án về một nhân viên mẫn cán của một cửa hiệu tạp hóa bị giết chết một cách dã man trong một vụ cướp. Bị kích thích và hấp dẫn bởi những tình tiết bên trong vụ án, Noreen bắt tay vào viết.
      Noreen mang một trăm trang bản thảo đầu tiên đến một hội nghị văn học có giới xuất bản tham dự. Trước cuộc thảo luận, Noreen chuẩn bị rất kỹ, nghiên cứu kỹ về lĩnh vực mà từng nhà xuất bản quan tâm, lưu ý cả về mức độ thành công của họ. Tại hội nghị, bà đưa bản thảo cho đối tượng lựa chọn đầu tiên của mình: Nhà xuất bản William Morris. Và, lần này thì không một lời từ chối nào được thốt ra. Đại diện nhà xuất bản chỉ hỏi bà một câu đơn giản: “Bà muốn ứng trước bao nhiêu?”. Thông thường giá bản thảo của một nhà văn chưa có tác phẩm xuất bản lần nào là vào khoảng 5.000 - 7.000 đô la. Noreen không biết điều đó, bà đưa ra một cái giá mà bà nghĩ có thể giúp bà toàn tâm toàn ý viết trong vòng hai năm: “150.000 đô la”. Thật bất ngờ, người đại diện đề nghị 120.000 đô la và đặt hàng bà hai cuốn, một thỏa thuận không thể tin được dành cho một nhà văn mới. Cuối cùng Noreen cũng đã trở thành một nhà văn có sách được xuất bản và được biết đến rộng rãi khi bước vào tuổi năm mươi hai. Cuốn sách đầu tiên của bà, A World the Color of Salt, xuất bản năm 1992, được nhiều nhà phê bình văn học khen tặng và nhận được nhiều lời ca ngợi từ độc giả. Carcass Trade là cuốn sách thứ hai của bà, được xuất bản năm 1994. Và cuốn thứ ba, The Juan Doe Murders, vừa được bà hoàn thành cách đây không lâu. Dù Noreen đã cầm bút và viết trong hơn ba thập kỷ trước khi sách của bà được xuất bản, nhưng cuối cùng bà đã đạt được ước mơ của mình. Không ai có thể tiên đoán được Noreen sẽ viết về những gì trong tương lai, nhưng chắc chắn bà sẽ không có trang sách nào dành cho sự hối tiếc.
NOREEN AYRES

Tình bạn vĩ đại và một cuộc đời vĩ đại

Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2012

Tình bạn vĩ đại và một cuộc đời vĩ đại

“Kho tàng kinh nghiệm của một người sẽ bớt đi sự phong phú nếu không có bất kỳ khó khăn nào để vượt qua.”
Đó chính là cuộc đời của Helen Keller (1880 - 1968) và tình bạn của bà với Anne Sullivan (1866 - 1936).
Tên đầy đủ của Helen là Helen Adams Keller, một nữ tác giả nổi tiếng thế giới và một giảng viên “đặc biệt” người Mỹ, người được Tổng thống Lyndon Johnson tặng thưởng Huân chương Tự do, tấm huân chương cao quý nhất của nước Mỹ dành cho những công dân có sự cống hiến xuất sắc cho cộng đồng. Bà sinh tại Tuscumbia, một thị trấn miền quê thuộc vùng tây bắc Alabama vào ngày 27/06/1880. Tháng hai năm 1882, mười chín tháng sau khi cất tiếng khóc chào đời, Helen bị một cơn sốt bại não tấn công. Thời đó, nguyên nhân căn bệnh của Helen vẫn là một bí ẩn đầy thách thức đối với giới y khoa. Các bác sĩ đương thời gọi đó là “bệnh sốt não” trong khi các chuyên gia y tế ngày nay cho đó là bệnh ban đỏ hay chứng “viêm màng não”. Lúc đó Helen rơi vào tình trạng sốt cao kéo dài nhiều ngày và chỉ biết nằm chờ chết. Nhưng kỳ lạ thay, cơn sốt bỗng dưng biến mất và cả gia đình bà vui mừng vì Helen sắp khỏe lại. Và Helen đã khỏe lại thật, nhưng thị lực và thính lực của cô bé đã không còn nữa. Mãi sau này mẹ bà mới phát hiện ra sự thật đau buồn đó khi không thấy Helen có phản ứng gì mỗi khi tiếng chuông báo giờ cơm gia đình vang lên, hoặc không hề chớp mắt khi bà huơ tay trước mặt cô bé. Cô bé khốn khổ liên tục làm vỡ bát đĩa, chụp đèn, và mọi thứ vật dụng trong nhà. Cô sống trong nỗi bực dọc, cáu kỉnh triền miên và luôn làm phiền mọi người. Họ hàng cô bảo rằng cô cần phải được vĩnh viễn đưa vào một dưỡng viện dành cho trẻ khuyết tật, nhưng mẹ cô kịch liệt phản đối. Năm lên sáu, Helen được mẹ đưa đi gặp các chuyên gia y tế để tìm kiếm một cơ may, nhưng cũng như các chuyên gia khác, họ xác nhận cô hoàn toàn mù và điếc. Họ không thể làm gì khác hơn để giúp đỡ cô bé ngoài việc động viên và giới thiệu mẹ con bà đến gặp một chuyên gia về các vấn đề của trẻ khiếm thính, Alexander Graham Bell (ông cũng chính là nhà phát minh ra chiếc điện thoại cho cả thế giới sử dụng đến ngày nay). Nhưng Bell cũng chỉ có thể giới thiệu Helen cho Michael Anagnos, hiệu trưởng Học viện Y khoa Perkins kiêm giám đốc Bệnh viện Tâm thần Massachusetts. Anagnos sau khi xem xét trường hợp Helen lại giới thiệu mẹ con bà đến gặp Anne Sullivan, một học trò cũ của ông, người sẽ kèm cặp Helen cách đọc chữ nổi Braille và “viết” bằng một chiếc máy chữ đặc biệt. 

Gặp Anne Sullivan

 Anne Sullivan cũng là người gần như mất hết thị lực vào năm lên năm. Sự mù lòa của bà cũng là di chứng của một trận sốt, nhưng không giống trường hợp của Helen. Năm 1876, mẹ bà qua đời và để lại hai anh em bà cho người cha, người đã ghẻ lạnh và sau đó gởi hai anh em bà vào trại tế bần. Hai năm sau, anh trai bà chết tại chốn cô quạnh đó. Bà ra đi và bắt đầu theo học tại Học viện Y khoa Perkins. Trong thời gian học tại Perkins, bà đã trải qua hai cuộc phẫu thuật mắt và lấy lại một phần thị lực đủ để đọc mỗi lần vài trang sách. Năm 1886, Anne tốt nghiệp và đi tìm việc làm. Nhưng việc làm đối với một người yếu thị lực như bà vào thời đó không phải là chuyện dễ dàng. Và, như một cơ duyên, bà được Michael Anagnos giới thiệu làm gia sư cho một cô bé tên Helen Keller, sáu tuổi, và bà đã nhận lời một cách rất tự nguyện dù chưa hề có kinh nghiệm gì trong việc dạy người mù. Helen Keller và Anne Sullivan đã gặp nhau trong hoàn cảnh đó. Ngày 03/03/1887, Anne đi Tuscumbia để gặp cô trò nhỏ. Để kỷ niệm lần “gặp” nhau đầu tiên này, Anne dạy Helen “đánh vần” chữ “doll” (búp bê) bằng cách sờ trên bảng chữ nổi Braille, và chữ thứ hai là chữ “cake” (bánh nướng). Song, dù Helen có thể nhận ra và ghép vần chính xác hai từ trên, cô vẫn không hiểu được nghĩa của chúng (vì thính giác của cô bé cũng mất hoàn toàn). Vì vậy, làm gia sư cho Helen quả là một sứ mạng đầy khó khăn đối với Anne, và càng gian nan hơn nữa khi Anne phải “chiến đấu” hàng ngày trong việc uốn nắn những thói hư tật xấu do sự “tăm tối” và tính khí thất thường của Helen gây ra, nhất là lối cư xử có thể gây bối rối cho mọi người trên bàn ăn (cô thường bốc thức ăn trong đĩa của người bên cạnh, dĩ nhiên đó là do cô không nhìn thấy gì  cả).
Nỗ lực sửa đổi các thói quen xấu trên bàn ăn của Helen cũng như hướng dẫn cô bé tự chải tóc hay cài nút áo chỉ làm Helen “phát khùng” hơn mà thôi. Tuy nhiên, sau gần một tháng kiên trì với Helen, Anne đã làm được điều mọi người cho là “một phép mầu”. Nhưng hiểu được ý nghĩa của từ ngữ thì vẫn chưa có gì tiến triển. Cho tới một ngày, khi Anne dắt Helen ra vườn và vừa bơm nước vừa viết từ  “nước” vào lòng bàn tay cô bé, gương mặt Helen bỗng rạng ngời một niềm sung sướng. Cô đã hiểu từ “water” (nước) nghĩa là gì. Đó là ngày 05/04/1887. Helen nhớ lại: “Lúc đó chúng tôi đi ra giếng nước trong vườn và ngây ngất trước hương thơm ngào ngạt của loài hoa honey-suckle. Cô giáo tôi viết từ “water” vào tay tôi trong khi rót một dòng nước mát lạnh vào tay kia, tôi đứng lặng cảm nhận cử động ngày càng nhanh của các ngón tay của Anne. Bất thình lình một cảm giác mơ hồ, bị lãng quên từ lâu đã sống dậy trong tôi. Một cảm xúc dâng trào và không hiểu sao sự bí ẩn của ngôn ngữ bỗng dưng hé mở với tôi”. Trong vòng vài giờ sau sự kiện này, Helen đã học được 30 từ mới. Cô bé liến thoắng hỏi Anne về đủ mọi thứ cô chạm phải trong vườn: nào là tên của chiếc máy bơm, nào là hàng rào mắt cáo, rồi đến các loại cây, cỏ, hoa, lá, … Sự tiến bộ của Helen gây sửng sốt cho tất cả những ai đã từng biết đến cô như một đứa trẻ vừa mù vừa điếc, lại bẳn tính và khó dạy. Chẳng bao lâu sau, Anne bắt đầu dạy Helen đọc chữ nổi, và sau đó là chữ trên bảng đục lỗ dành cho người mù (chữ Braille), rồi đến đánh máy chữ, cả loại có phím chữ nổi lẫn máy thường. Michael Anagnos trong nhiều bài báo đã gọi Helen là “một hiện tượng”. Những bài báo đó (đăng kèm bức ảnh Helen đang đọc Shakespeare hay đang đi dạo cùng chú chó cưng) góp phần tạo nên một làn sóng quan tâm rộng lớn trong xã hội về hiện tượng Helen. Helen trở nên nổi tiếng khắp nước Mỹ. Trong một lần trở lại thăm Graham Bell, cô được Tổng thống Cleveland mời vào Nhà Trắng. Năm 1890 cô vào sống trong Học viện Perkins dưới sự dạy dỗ của Anne Sullivan. Tháng ba năm đó, cô được Mary Swift Lamson dạy nói. Tuy nhiên, dù Helen đã cố hết sức nhưng học nói không đơn giản như học “đánh vần”, học hiểu nghĩa hay học viết. Cô cố mường tượng và mấp máy môi và thanh quản theo cô giáo nhưng vô ích, bởi vì các dây thanh của cô đã không được rèn luyện để nói trước đó, khi cô còn bé.

 Helen vào đại học

        Năm 1896, Helen học trường Nữ sinh Cambridge cho đến mùa thu năm 1900, cô bước vào Đại học Radcliffe và trở thành người mù – điếc đầu tiên tại Mỹ (và có lẽ cả thế giới) đi học đại học. Cuộc sống tại Radcliffe rất gian nan đối với Helen và Anne. Số lượng bài vở khổng lồ nhanh chóng làm hỏng thị lực của Anne. Trong thời gian này Helen viết tự truyện “The Story of My Life” bằng máy chữ Braille lẫn máy chữ thông thường. Năm 1903, sách được xuất bản nhưng bán không được bao nhiêu bản. Tuy vậy, đó vẫn là một trong những quyển sách kinh điển của nền văn học Mỹ. Ngày 28/06/1904, Helen trở thành người mù-điếc đầu tiên lấy được bằng Cử nhân của Đại học Radcliffe. Sau đó, Anne kết hôn với John Albert Macy, người từng biên tập giúp Helen quyển “The Story of My Life” trước đó, và cả ba sống chung một nhà tại Wrentham, Massachusetts. Trong khoảng thời gian này, Helen viết cuốn “The World I live In” kể  lại những ý nghĩ đầu tiên của cô về thế giới xung quanh. Năm 1909, Anne trở thành thành viên của Đảng Xã hội Massachusetts. Năm 1913, “Out of the Dark” được xuất bản. Đó là một loạt những bài viết về chủ nghĩa xã hội và nhờ đó, ảnh hưởng của Helen trước công chúng trở nên rất mạnh mẽ. Từ đây mọi người được biết thêm về quan điểm chính trị của Helen.

Những cuộc thuyết trình vòng quanh thế giới

     Sau đó Helen và Anne bắt đầu những cuộc thuyết trình vòng quanh thế giới và sống khá thoải mái nhờ thù lao từ những buổi thuyết trình của họ. Nhưng nhu cầu nghe của khán thính giả ngày càng giảm dần. Họ chuyển qua làm kịch vui và thu được nhiều thành công vang dội với thù lao khoảng hai ngàn đô la mỗi tuần. Đó là một số tiền rất lớn thời bấy giờ. Năm 1918, Helen, Anne và John chuyển đến sống tại Forrest Hills, New York. Helen sử dụng ngôi nhà của họ làm cơ sở gây quỹ từ thiện giúp người mù và điếc. Năm 1922, Anne mắc bệnh viêm phổi và yếu dần. Polly Thomson, cô thư ký cho Helen và Anne tiếp tục vai trò của Anne trên sân khấu: trở thành người “phiên dịch” cho Helen trước khán thính giả. Helen và Polly tiếp tục chu du khắp nơi trên thế giới để gây quỹ giúp đỡ người mù. Năm 1931, họ được Vua George và Hoàng hậu Mary của Anh Quốc mời vào tiếp kiến tại Điện Buckingham vì ngưỡng mộ tài năng của Helen trong việc “nghe” được người khác bằng đôi tay (không phải đôi tai - ND) của mình. Ngày 20/10/1936, Anne qua đời. Helen bỗng cảm thấy trở lại đơn độc như những ngày thơ ấu. Nhưng cô không cho phép mình đầu hàng số phận. Cùng Polly, họ lại tiếp tục tiến bước. Một con người có ảnh hưởng trong thời đại của mình. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai (1939-1945), Helen và Polly đi các nước Nhật, Úc, Nam Phi, châu Âu, châu Phi để gây quỹ cho Tổ chức Những Người Mù Hải ngoại Hoa Kỳ. Nếu không nhờ những ngày tháng học chữ, học nói cùng Anne, có lẽ giờ đây Helen không có cách nào giao tiếp được với mọi người từ khắp nơi trên thế giới như thế. Trên đường đi vòng quanh thế giới, họ nhận được tin căn nhà ở Arcan Ridge, nơi hai người dọn về ở sau cái chết của Anne Sullivan, bị hỏa hoạn thiêu hủy hoàn toàn, trong đó có cả bản thảo cuốn sách bà vừa mới viết về Anne, có tựa đề Teacher (Cô giáo của tôi). Năm 1953, một bộ phim tài liệu có tên The Unconquored (Người không bị khuất phục) nói về cuộc đời Helen Keller được trao giải Oscar dành cho phim tài liệu hay nhất. Cũng năm đó, Helen viết lại cuốn Teacher, cuốn sách có bản thảo bị thiêu rụi 7 năm trước đó. Cuối cùng, cuốn sách được xuất bản vào năm 1955. Năm 1957, vở “The Miracle Worker”, một vở kịch nói về thành công đầu tiên của Anne Sullivan trong việc giao tiếp với Helen khi còn bé, được dàn dựng và truyền hình trực tiếp lần đầu tiên ở Mỹ. Năm 1959, vở kịch được dàn dựng trên sân khấu Broadway và đem lại thành công vang dội. Năm 1962, nó được dựng thành phim và hai diễn viên vào vai Helen và Anne đã nhận được hai giải Oscar diễn viên xuất sắc nhất. Năm 1960, đến lượt Polly Thomson qua đời vì hậu quả của những lần đột quỵ kéo dài. Tro cốt của bà được đặt cạnh tro cốt của Anne Sullivan bên trong Nhà thờ Chánh tòa Quốc gia tại Thủ đô Washington. Winnie Corbally sau những ngày tháng được chọn chăm sóc cho Polly giờ tiếp tục sống với Helen trong những năm cuối đời bà. Tháng 10 năm 1961, Helen bắt đầu hứng chịu những cơn đột quỵ đầu tiên. Bà ít giao thiệp với công chúng hơn và rút lui hẳn trong thời gian ngắn sau đó. Năm 1964, Helen được trao tặng Huân chương Tự do của Tổng thống Mỹ. Một năm sau, bà được ghi tên vào Nhà Danh vọng Hoa Kỳ. Ngày 01/06/1968, Helen qua đời một cách bình yên trong một giấc ngủ tại căn nhà của bà ở Arcan Ridge. Hài cốt bà được đưa về đặt bên cạnh hai người bạn lớn, Anne Sullivan và Polly Thomson, tại Nhà thờ Chánh tòa Quốc gia Washington. Ngày nay, nơi yên nghỉ của Helen là một điểm du lịch có sức hấp dẫn rất lớn đối với du khách Mỹ và quốc tế. Một tấm bia đồng được dựng lên có khắc dòng chữ kiểu Braille để tưởng niệm Helen Keller và hai người đồng hành thân thiết của bà. Du khách nào đến đó cũng muốn một lần sờ vào tấm bia có hàng chữ nổi, đến độ người ta đã phải thay tấm bia đó hai lần kể từ ngày nó được dựng lên lần đầu tiên. Trong quyển tự truyện của mình, The Story of My Life, Helen viết rằng “người mù cũng là một con người bình thường và không ai được phép trêu ghẹo họ hay làm họ tổn thương”. Nếu không có Helen, có lẽ rất nhiều người trong số các sinh viên của bà đã không có được trình độ học vấn như hiện nay.
Cần nói thêm rằng, năm 1932 bà nhận chức Phó Chủ tịch Học viện Hoàng gia dành cho Người mù của Vương quốc Anh. Năm 1946, bà được chọn làm cố vấn quan hệ quốc tế cho Hội Người Mù Hoa Kỳ ở Nước ngoài (sau đổi tên thành Tổ chức Quốc tế Helen Keller). Bà đã từng đi 35 nước qua 7 chuyến công du và diễn thuyết trong vòng 11 năm. Helen Keller nhận bằng Tiến sĩ danh dự của Đại học Temple, Đại học Harvard, và của nhiều trường Đại học khác như Glasgow, Berlin, Delhi, Johannesburg. Nhà Danh vọng Hoa Kỳ trân trọng dành riêng một gian phòng để trưng bày bộ sưu tập về thư từ, kỷ vật của bà cùng những huân, huy chương mà bà từng được trao tặng, trong đó có Huân chương Chữ thập của Chính phủ Brazil, Huân chương Tận hiến của Chính phủ Nhật Bản, Giải thưởng dành cho cá nhân có những hoạt động nhân đạo xuất sắc của tổ chức Lions. Nhưng hơn tất cả những vinh dự lớn lao Helen Keller đã đạt được là sự cảm thông, là tình bạn và tình hữu nghị mà bà đã xây dựng ở khắp nơi trên thế giới, từ những con người bình thường cho đến các nhà lãnh đạo hàng đầu vào thời của bà. Hầu như trong số những danh nhân thời đó, chỉ còn Charlie Chaplin, Nehru và John F. Kennedy là bà chưa gặp mặt. Bà thực sự là một vị đại sứ chung của cả thế giới và là một lãnh tụ lỗi lạc, người luôn phấn đấu hết mình vì một tương lai tươi sáng hơn cho những con người không may phải sống trong bóng tối hay trong một thế giới không có âm thanh. Cuộc đời Helen Keller thật khác so với rất nhiều người trong chúng ta, và bà cũng đã làm được nhiều điều thật khác biệt cho thế giới này! 

Những gì tốt đẹp nhất nhất phải được cảm nhận bằng trái tim
Bạn có thể làm được mọi thứ nếu bạn có niềm tin vững chắc ở bản thân, một ý chí mạnh mẽ,  một trái tim vĩ đại, và một vài thần tượng để bạn noi theo.




HELEN KELLER 

Mari mẹ của 3 chú cún nhỏ và là biểu tượng của một câu chuyện thần kì, có thật về sự yêu thương và lòng trung thành

Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2012
Mari mẹ của 3 chú cún nhỏ và là biểu tượng của một câu chuyện thần kì,
 có thật về sự yêu thương và lòng trung thành

Hôm nay là một câu chuyện có thật đã được dựng thành phim nhé..........

Nếu bạn không có nhiều thời gian hãy xem đoạn phim ngắn khoảng 6' được trích ra nhé !


Còn bạn bạn cảm thấy thế nào về câu chuyện được nói ở đây ...........
Hãy xem và cảm nhận nhé



Sức mạnh của ý chí

Thứ Sáu, 9 tháng 11, 2012
Sức mạnh của ý chí  
 “Tôi luôn tin rằng tôi có thể đi lại bình thường, và đó là sự thật. Giờ đây tôi sẽ chạy, và chạy nhanh hơn bất kỳ người nào khác!”
Tại ngôi trường làng nhỏ bé của một vùng quê nghèo thuộc bang Kansas, Mỹ, có một cậu học trò bảy tuổi thường đi học sớm để đốt lò sưởi cho cả lớp. Một sáng nọ, khi vừa bước đến cửa lớp, bọn trẻ nhìn thấy lửa cháy tràn lan khắp phòng học. Chúng hốt hoảng khi nhìn thấy người bạn tốt bụng của mình đang nằm bất tỉnh trên nền nhà. Mọi người nhanh chóng kéo cậu ra ngoài và đưa cậu đến trạm xá trong tình trạng thập tử nhất sinh: cậu bị phỏng gần hết phần thân dưới. Từ trên giường bệnh, cậu bé lại ngất xỉu một lần nữa khi nghe bác sĩ nói với mẹ cậu rằng cậu đã hết phương cứu chữa, rằng cậu sẽ chết trong vài ngày tới vì ngọn lửa đã tàn phá gần như toàn bộ phần thân thể từ bụng xuống đến chân cậu. Nhưng cậu trò nhỏ không muốn chết. Cậu quyết định phải sống bằng mọi giá. Và, trước sự kinh ngạc của các nhân viên y tế, cậu đã thực sự sống sót. Khi lưỡi hái tử thần đã đi qua, cậu lại nghe bác sĩ và mẹ cậu nói thầm gì đó với nhau. Bác sĩ bảo rằng thịt da cậu đã bị lửa nướng chín gần hết, rằng cái chết có lẽ là tốt hơn cho cậu vì cậu sẽ sống cuộc đời còn lại trên một đôi chân què quặt. Một lần nữa cậu bé dũng cảm hạ quyết tâm, rằng cậu sẽ chẳng chịu làm một đứa trẻ tật nguyền, cậu phải đi, chạy, nhảy như  các bạn của mình. Nhưng sự thật là cậu chẳng thể cử động được gì từ thắt lưng trở xuống, toàn bộ phần dưới cơ thể cậu chỉ là một sự bất động. Cuối cùng cậu cũng được xuất viện. Mẹ cậu xoa bóp đôi chân nhỏ bé của cậu mỗi ngày nhưng cậu  vẫn không hề có cảm giác gì, cậu hoàn toàn không điều khiển được phần dưới cơ thể mình. Nhưng, ý chí của cậu thì mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Một buổi sáng nọ, khi mẹ cậu đẩy cậu ra sân để hít thở khí trời và tắm nắng, cậu vùng dậy nẩy người ra khỏi chiếc xe lăn rơi đánh phịch xuống đất. Cậu bò, cậu trườn, cậu toài người vào đám cỏ, kéo lê đôi chân tật nguyền phía sau. Cậu nhắm thẳng hàng rào mà bươn tới, rồi bằng một nỗ lực bất ngờ, cậu với nắm lấy bờ rào, và đứng dậy. Cứ thế, hết ngày này sang ngày khác, cậu ra vườn và men theo bờ rào tập đi. Chẳng mấy chốc, quanh nhà cậu là một con đường mòn nhẵn thín. Trong lòng cậu chỉ có một mong muốn duy nhất là phải sống trên chính đôi chân của mình. Chính nhờ bàn tay dịu dàng của mẹ và ý chí kiên cường của chính bản thân, cậu đã có thể đứng lên, bước đi, và … chạy. Năm mười hai tuổi, cậu đi học trở lại, cậu chạy bộ đến trường, rồi cậu chạy thi và đánh bại mọi vận động viên khác ở cùng lứa tuổi. Cậu chạy vì niềm vui được chạy nhảy và cuối cùng, khi trưởng thành, cậu chạy với tư cách là một vận động viên chuyên nghiệp giữa các sân vận động danh tiếng trên thế giới trong tiếng reo hò vang dậy của hàng triệu triệu người hâm mộ. Đó là chân dung nhà vô địch Glenn Cunningham, “Người đàn ông thép của Kansas” (Kansas Ironman), “Cánh én Kansas” (Kansas Flyer), “Con ngựa sắt vùng Kansas” (Iron Horse of Kansas), và “Con tàu tốc hành Elkhart” (Elkhart Express), những biệt danh do báo chí và người hâm mộ đặt cho ông, người phá kỷ lục thế giới cự ly chạy 1 dặm với thành tích 4’06”08 vào năm 1934, khi ông chưa đến tuổi 25. “Tôi luôn tin rằng tôi có thể đi lại bình thường, và đó là sự thật. Giờ đây tôi sẽ chạy, và chạy nhanh hơn bất kỳ người nào khác!”, Glenn phát biểu như thế sau khi lập kỷ lục thế giới. Glenn Cunningham được vinh danh tại Quảng trường Madison là một trong những vận động viên điền kinh xuất sắc nhất của Mỹ thế kỷ 20. Ông mất ngày 10/03/1988 tại Menifee, bang Arkansas, Hoa Kỳ, ở tuổi 80.
GLENN CUNNINGHAM

Người tự kiến tạo đời mình

Thứ Năm, 8 tháng 11, 2012
Người tự kiến tạo đời mình  
“Đừng bao giờ nói bạn không thể làm một việc nào đó trước khi bạn thử sức với nó!”

       Khởi đầu từ một phụ nữ trẻ chưa có kinh nghiệm và kiến thức gì đáng kể trong lĩnh vực kinh doanh, Pam Lontos đã viết nên câu chuyện thành công bằng chính cuộc đời mình. Đó là một câu chuyện đáng để nhiều người học hỏi. Cô không có bí quyết gì đặc biệt bởi cô luôn bị kiểm soát trong phần lớn cuộc đời mình. Từ nhỏ, cha mẹ luôn cảnh báo rằng cô không được liều lĩnh. Cô không được đi tắm biển vì “dễ bị chết đuối”; cô không được mua sắm ở khu trung tâm thành phố với bạn bè vì “giá cả đắt đỏ”. Đến lúc lập gia đình, cô lại bị chồng thuyết phục từ bỏ ngành tâm lý học, chuyên ngành mà cô rất yêu thích, để chuyển sang ngành sư phạm, làm một nghề “không sợ bị thất nghiệp”, nhưng cũng là công việc cô không hề có chút hứng thú. Sau ba năm đi dạy ngán ngẩm, Pam bỏ nghề với hy vọng công việc nội trợ và chăm sóc con cái sẽ làm cho cuộc sống của cô có ý nghĩa hơn. Nhưng cô đã nhanh chóng cảm thấy chán ngán và tuyệt vọng. Tình trạng này đã xảy ra với hàng triệu phụ nữ khác. Pam Lontos, bà mẹ của hai đứa con, có một cuộc sống đầy đủ tiện nghi cùng một người chồng thành đạt nhưng lại thiếu thốn tình cảm. Cô luôn cảm thấy trống rỗng và vô tích sự. Cô chỉ sống vật vờ và có cảm giác rằng mình chẳng đóng góp được gì cho xã hội. Càng nghĩ về điều đó, cô càng trở nên trầm cảm. Mọi người đối phó với chứng trầm cảm theo nhiều cách khác nhau. Một số vào bệnh viện, số khác thì đắm mình vào rượu và ma túy. Riêng Pam thì lấy giấc ngủ làm cách giải quyết vấn đề của mình – và cứ thế suốt năm năm liên tục. Mỗi sáng cô thức dậy, đưa con đến trường rồi về nhà tìm “hạnh phúc” trong giấc ngủ vùi. Chỉ mới hơn ba mươi tuổi, cô ngủ 18 tiếng mỗi ngày và tăng cân vùn vụt. Nhiệt huyết, lòng tự tin và niềm vui sống hoàn toàn biến mất nơi cô. Những lúc không ngủ, cô buồn có thể chết đi được. Nếu cảm thấy cuộc đời không đáng sống nhưng bạn buộc phải sống thì bạn chỉ có một cách duy nhất để thoát khỏi tình cảnh đó: thay đổi. “Cả cuộc đời tôi trước đây luôn có một ai đó quyết định thay tôi, nhưng chẳng có gì tốt đẹp cả.” Thay đổi là một thử thách lớn

      Pam phải chui ra khỏi vỏ ốc của mình để tự mình tạo ra một cuộc sống thực sự có ý nghĩa. Hành động đầu tiên để cô trở về với thế giới đời thường là ghi danh vào một phòng tập thể dục thẩm mỹ. Điều đó nghe có vẻ bình thường, nhưng khoảnh khắc cô bước qua ngưỡng cửa phòng tập, cô như bắt đầu bước vào một cuộc sống mới. Jim, chủ phòng tập, là một người tinh tế và năng động. Ông lập tức nhận ra rằng Pam cần được giúp đỡ. Ông đã khích lệ để cô có thể gặt hái những kết quả tốt đẹp nhất. Ông cũng cho cô mượn những cuộn băng cassette có những câu chuyện động viên tinh thần. Pam đã nghe đi nghe lại những cuộn băng đó hàng chục lần. Sau vài tháng luyện tập, Pam trở lại gọn ghẽ như ngày nào và nỗi sợ hãi trong cô cũng tan biến theo. Pam dũng cảm hơn và tự hỏi: Bây giờ mình sẽ làm gì? Đây là câu hỏi cô không bao giờ đủ can đảm nghĩ tới trước đây. Lúc nhỏ, cô phụ gia đình bán giày dép. Có lẽ cô sẽ thích hợp với công việc bán hàng. Và khi chứng kiến bản thân mình thay đổi ngày một tốt hơn, cả về tinh thần lẫn thể chất, cô ấp ủ câu hỏi tại sao mình không bắt đầu từ đây, ngay phòng tập này? Mặc dù chưa có kinh nghiệm và cũng chưa được huấn luyện trong lĩnh vực bán thẻ hội viên, cô vẫn đề nghị Jim cho cô làm công việc đó: “Anh là người đã cho tôi những cuộn băng cassette đó và khích lệ tôi sống có ích, vậy anh phải thuê tôi chứ!”. Jim không những nhận cô làm nhân viên, mà còn chia sẻ với cô những triết lý sống tích cực, lạc quan yêu đời và giúp cô vượt qua những nỗi sợ hãi. Khi Pam nói từ trước tới giờ cô chưa từng lái xe vào trung tâm thành phố, Jim khuyến khích cô ngồi vào sau tay lái, còn mình ngồi bên cạnh làm hướng dẫn viên, và cứ thế họ lái xe xuống phố. Khi sự tự tin của cô tăng lên, doanh số cũng tăng theo. Trong vài tuần, Pam lái xe đi khắp nơi và bán được nhiều thẻ hội viên hơn so với những nhân viên khác. Chỉ trong một thời gian ngắn, cô đã trưởng thành vượt bậc. Cô lấy triết lý của Jim làm nền tảng cho mình “Đừng bao giờ nói bạn không thể làm một việc nào đó trước khi bạn thử sức với nó!”. Thành công của Pam trong năm đó là bước khởi đầu cho thành công sắp tới của cô. Có một trạm phát thanh vừa khai trương trong thành phố. Cô thuyết phục vị giám đốc ở đó nhận cô vào làm nhân viên quảng cáo. Hai bên thỏa thuận là cô làm việc không lương mà chỉ hưởng phần trăm hoa hồng trên doanh thu quảng cáo. Cô không biết đó là thử thách vô cùng lớn, bởi trạm phát thanh này chưa có tên tuổi, nên không có nhiều thính giả. Cô không biết là mình chỉ có thể bán được quảng cáo cho những công ty nhỏ mà thôi, bởi các công ty lớn chỉ mua quảng cáo ở các đài phát thanh lớn, có số lượng thính giả nhiều hơn. Vì không biết điều đó nên cô gọi tất tần tật mọi công ty lớn và nhỏ để chào mời họ quảng cáo dựa trên chất lượng và tiềm năng phát triển thính giả của đài, hơn là số người nghe hiện tại. Pam cũng không hề biết doanh số trong khoảng thời gian tháng giêng sau kỳ nghỉ luôn luôn thấp. Nên cô vẫn nỗ lực hết mình trong tháng giêng như những tháng khác, trong khi các nhân viên kinh doanh khác đều lơ là và trông đợi vào tháng hai. Nhờ đó, cô đã kiếm được khoản huê hồng lớn nhất từ trước tới nay trong việc bán quảng cáo trên phát thanh Dallas. Kể từ đó, Pam liên tục dẫn đầu về doanh thu, bằng số tiền bán quảng cáo của sáu nhân viên khác gộp lại.
Cô ngày càng tự tin hơn và đủ can đảm để đối mặt với tình trạng hôn nhân của mình. Sau khi giải quyết một số vấn đề, cô và chồng chia tay nhau. Công việc ở đài phát thanh cũng có những lúc thăng trầm. Tình hình kinh doanh trở nên hết sức tồi tệ. Pam không biết rằng mọi người thường phải bỏ cuộc khi gặp những thời khắc khó khăn. Mọi người xung quanh cô bỏ việc, nhưng cô lại đề nghị được đảm nhận vị trí mới: Giám đốc kinh doanh. Cấp trên quá bất ngờ, họ không hề phản đối đề nghị của cô. Cô nhận công việc tồi tệ nhất nhưng lại tỏ ra vô cùng phấn khích! Trong buổi họp đầu tiên, Pam viết mục tiêu phải đạt được trong tháng lên bảng: 100.000 đô la. Mọi người trố mắt kinh ngạc. Về phần mình, Pam bán được trung bình 35.000 đô la mỗi tháng. Cô nghĩ ba nhân viên kia cũng bán được như mình. Sau buổi họp, vị tổng giám đốc gọi cô vào phòng và giải thích, doanh số trung bình của đài chỉ có 42.000 đô la một tháng, phần cô là 35.000 đô la cộng với 7.000 đô la của cả ba nhân viên cộng lại. Vì thế, theo ông mục tiêu 100.000 đô la mà cô đề ra là không thực tế. Buổi chiều hôm đó, Pam định xem xét lại và hạ mục tiêu xuống còn 50.000 đô la. Nhưng trên đường đi làm vào sáng hôm sau, cô nghe lại cuộn băng cassette mà Jim đã cho cô trước đây. Cô kiên quyết không từ bỏ mục tiêu “viển vông” 100.000 đô la đã đề ra. Ở cuộc giao ban sáng hôm đó, cô khẳng định lại sự tin tưởng của cô đối với họ, rằng họ có thể làm được. Vào cuối tháng, doanh số cả nhóm đạt 100.000 đô la. Đến tháng mười hai, doanh số lên tới 140.000 đô la. Ba tháng sau, họ đạt doanh thu 180.000 đô la. Gần một năm sau, Pam và bộ phận kinh doanh đạt con số kỷ lục 272.000 đô la. Họ đã giành được những kết quả bất ngờ mặc dù lượng thính giả chỉ tăng trong một chừng mực nhất định. Chỉ sau hai năm làm việc tại đài ở cương vị Giám đốc kinh doanh, Pam được đề bạt chức Phó chủ tịch phụ trách kinh doanh, vị trí thứ hai sau Tổng giám đốc. Cô không hề biết rằng thông thường phải mất từ năm đến mười năm để đạt đến vị trí này và chưa từng ai được đề bạt thẳng lên chức vụ Phó chủ tịch phụ trách kinh doanh từ vị trí Giám đốc kinh doanh. Cô nói: “Tôi mừng vì mình không hề biết điều này. Nếu không thì giờ này có lẽ tôi vẫn còn là một Giám đốc kinh doanh!”. Sau bốn năm thành công tại đài phát thanh, Pam từ nhiệm để bắt đầu một cuộc phiêu lưu mới. Ngày nay, Pam Lontos là một diễn giả, tác giả và là chuyên gia tư vấn tiếp thị và kinh doanh nổi tiếng. Hàng ngày, cô vẫn động viên người khác làm theo chính xác những gì mình đã làm – đó là tin vào những gì khả năng của mình có thể vươn tới, chứ không phải khuôn mình trong những hạn chế để làm mình lo sợ và chùn bước.
 PAM LONTOS
trích "  Nơi nào có ý  chí  nơi đó có con đường"